“Đóng góp của cây trồng công nghệ sinh học trong nông nghiệp tại Việt Nam”
10:00 - 08/04/2021
 Đó là chủ đề hội thảo do Trung ương Hội Nông dân Việt Nam phối hợp với Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam và Tổ chức quốc tế về ứng dụng và tiếp thu công nghệ sinh học trong nông nghiệp (ISAAA) đồng tổ chức chiều 7/4 tại Hà Nội.
Hội thảo là diễn đàn chia sẻ thông tin về hiện trạng ứng dụng cây trồng công nghệ sinh học (CNSH) trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam và đặc biệt thảo luận về các tác động kinh tế, xã hội và môi trường của ngô CNSH sau 5 năm cấp phép canh tác trong nước.

Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Xuân Định phát biểu tại hội thảo (Ảnh: langmoi.vn) 


CNSH ứng dụng trong nông nghiệp được xem là một trong các thành tựu khoa học nổi bật của thế kỷ trước, cho tới nay vẫn đang được minh chứng tính ưu việt bởi số liệu ứng dụng ngày một tăng trên toàn cầu cũng như những tác động kinh tế, xã hội và môi trường tích cực mà công nghệ mang lại cho nông dân, người tiêu dùng và cộng đồng.


Theo báo cáo của tổ chức ISAAA, với việc có thêm 3 quốc gia châu Phi, số lượng các quốc gia canh tác cây trồng CNSH đã tăng lên 29 vào năm 2019. Trong đó, 5 quốc gia dẫn đầu với diện tích cây trồng CNSH lớn nhất là Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Canada và Ấn Độ. Ước tính, khoảng 1,95 tỷ người, tương đương với 26% dân số thế giới, được hưởng lợi từ CNSH vào năm 2019.

Quang cảnh hội thảo (Ảnh: langmoi.vn) 


Tại Việt Nam, cây trồng CNSH đã được chính thức cấp phép canh tác thương mại từ 2014-2015 trên cây ngô. Ngô cũng là một trong các cây trồng chính trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nước ta cũng là một trong các quốc gia canh tác ngô nhiều nhất trên thế giới. Việc đưa các giống CNSH thời điểm đó được xem là một trong các công cụ quan trọng giúp tiếp tục nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất, gia tăng giá trị và giúp nông dân trồng ngô có thêm lợi nhuận, từ đó củng cố năng lực của Việt Nam trong việc đảm bảo nguồn cung cho chuỗi thực phẩm và thức ăn chăn nuôi trong nước.


Năm 2019, tổng diện tích canh tác ngô CNSH khoảng 92.000 héc-ta, chiếm khoảng 10% tổng diện tích trồng ngô cả nước. Đặc biệt, tỷ lệ tăng trưởng hai con số về mặt diện tích trong các năm gần đây cho thấy mức độ chấp nhận của nông dân đối với công nghệ này đang tăng. Cụ thể vào năm 2015, tỷ lệ ứng dụng còn khiêm tốn khoảng 3,500 héc-ta chiếm chưa tới 1% tổng diện tích; tới nay diện tích ứng dụng đã tăng hơn 26 lần. Chỉ so sánh riêng giai đoạn 2018 – 2019, tỷ lệ tăng trưởng là 86%.


Vào năm 2019 – 2020, Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam phối hợp với Viện PG Economics (Anh Quốc) đã tiến hành một nghiên cứu đánh giá và phân tích tác động của cây ngô CNSH với các tính trạng chuyển gen kháng sâu và chống chịu thuốc trừ cỏ sau 5 năm canh tác. Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn nông dân trồng ngô (cả các giống ngô lai thường và ngô CNSH) tại các vùng sản xuất ngô trọng điểm của cả nước. Đây cũng là nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ nông hộ tại Việt Nam về cây trồng CNSH.


Ông Trần Xuân Định, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam cho biết: Nhiều giống cây trồng được tạo ra bằng CNSH đã có mặt ở Việt Nam giúp nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao thu nhập nhờ việc tăng năng suất và giảm thiểu chi phí thuốc bảo vệ thực vật.

Các đại biểu tham gia thảo luận (Ảnh: langmoi.vn) 
 

Theo Phó Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam Nguyễn Xuân Định, những năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, các chính sách về ứng dụng cây trồng CNSH trong nông nghiệp, hướng tới đảm bảo an ninh lương thực, phát triển bền vững… Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 04/3/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNSH phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã xác định CNSH là một lĩnh vực công nghệ cao dựa trên nền tảng khoa học về sự sống, kết hợp với quy trình và thiết bị kỹ thuật nhằm tạo ra các công nghệ khai thác các hoạt động sống của vi sinh vật, tế bào thực vật và động vật để sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm sinh học có chất lượng cao, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.


Chia sẻ về lý do lựa chọn canh tác giống ngô CNSH, ông Hoàng Trọng Ngãi, người trồng và chịu trách nhiệm hướng dẫn bà con nông dân trong hợp tác xã tại huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc cho hay: “Tôi và bà con tại đây đều lựa chọn trồng giống ngô CNSH do những đặc tính tốt mà chúng mang lại, thứ nhất là kháng được sâu bệnh, hai là khả năng chống chịu tốt với điều kiện thiên nhiên, thời tiết bất thuận. Tôi cùng bà con tại xã Đức Bác canh tác hơn 120 héc ta ngô CNSH kể từ 2015 khi giống ngô CNSH được đưa vào trồng trọt”.


“Các giống ngô CNSH đã giúp kháng các loại sâu lên tới 95%, trong khi đối với các giống ngô thường, đặc biệt vào điều kiện nhiệt độ cao như tại Nghệ An thì sâu phá hoại gần như toàn bộ, dẫn đến không còn thu hoạch. Nhờ vào việc không phải phun thuốc trừ sâu, gia đình tôi tiết kiệm được chi phí mua thuốc, chi phí phun thuốc, năng suất ngô CNSH tăng tới 20% so với trước kia. Việc không phun thuốc cũng giúp bảo vệ môi trường tốt hơn” – ông Nguyễn Thanh Phong, nông dân trồng ngô tại huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An chia sẻ.


Phân tích về các tác động của cây trồng CNSH ở phạm vi toàn cầu, Tiến sỹ Graham Brookes – Viện PG Economic đã dẫn chứng các số liệu trong nghiên cứu gần nhất phát hành năm 2020: “Tính đến năm 2018, tổng thu nhập gia tăng dành cho nông dân canh tác cây trồng CNSH là 19 tỷ đô la Mỹ - theo đó với mỗi đô la Mỹ chi phí đầu tư thêm cho hạt giống CNSH, lợi nhuận thu được thêm là 4,42 đô la Mỹ.


Bên cạnh đó, chỉ tính riêng năm 2018, cây trồng CNSH cũng giúp hạn chế tổng lượng CO2 thải ra môi trường khoảng 23 tỷ kilogram tương đương với việc loại bỏ 15.3 triệu ô tô lưu thông trên đường trong 1 năm.


 Theo TS. Graham, nông dân đặc biệt là những nông hộ có quy mô sản xuất nhỏ tại các nước đang phát triển thu được lợi ích rõ ràng hơn từ cây trồng CNSH, không chỉ từ việc năng suất cây trồng tăng (từ 10 tới 16,5% tuỳ loại cây trồng),  lợi nhuận tăng (trung bình khoảng 103 đô la Mỹ/ha) mà còn giúp giảm lượng thuốc BVTV sử dụng từ đó giảm bớt các tác động tiêu cực lên môi trường.


Tiến sỹ Rhodora R. Aldemita, Giám đốc khu vực Đông Nam Á kiêm Giám đốc Trung tâm Kiến thức toàn cầu về CNSH của ISAAA cho biết thêm: “Năm 2019, tổng cộng có 190,4 triệu héc-ta cây trồng CNSH được canh tác góp phần quan trọng vào giải quyết các vấn đề về an ninh lương thực, tính bền vững, giảm thiểu biến đổi khí hậu cũng như nâng cao đời sống của hơn 17 triệu nông dân ứng dụng CNSH cùng gia đình của họ trên toàn cầu. Việt Nam là một trong 3 nước có tốc độ tăng trưởng diện tích trồng cây CNSH đạt đến hai con số cùng với Philippines và Colombia”.


Nhận định về tương lai ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, ông Nguyễn Xuân Định cho biết: Theo Quyết định số 429/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển công nghệ sinh học ngành nông nghiệp đến năm 2023, một trong các mục tiêu tới năm 2030 đó là Việt Nam có thể làm chủ được một số công nghệ sinh học thế hệ mới, tạo ra sản phẩm quy mô nông nghiệp ứng dụng thực tiễn sản xuất và phát triển số lượng doanh nghiệp CNSH trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng thêm tối thiểu 30% so với giai đoạn 2021-2025.


Điều này cũng cho thấy định hướng phát triển và ứng dụng CNSH trong nông nghiệp là định hướng phát triển chung là việc bắt kịp xu hướng của Việt Nam cùng các nước trên thế giới trong ứng dụng các giống cây trồng thế hệ mới với các tính trạng cải tiến bằng khoa học hướng tới phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững và hiện đại.


Ông Định cũng khẳng định: “Sau hội thảo, Hội Nông dân Việt Nam, Hiệp hội Thương mại giống cây trồng  Việt Nam và Tổ chức quốc tế về ứng dụng và tiếp thu công nghệ sinh học trong nông nghiệp sẽ tiếp tục thảo luận, phối hợp xây dựng các hoạt động tiếp theo nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nông dân về tiềm năng, lợi ích cây trồng công nghệ sinh học cũng như giải quyết các khó khăn trong nghiên cứu ứng dụng cây trồng CNSH vào thực tiễn.”
 


 
Nguồn: Cổng ĐT HND
Thêm bình luận :
Họ và tên
Email
Đa dạng sản phẩm chế biến để mở rộng thị trường