Mỏ Ba (xã Tân Long, huyện Đồng Hỷ), là bản vùng cao đặc biệt khó khăn của tỉnh Thái Nguyên có một mô hình kinh tế mới của chàng trai trẻ.
“Vua dê” ở Mỏ Ba
Nhiều chương trình hỗ trợ đồng bào vùng dân tộc đã được thực hiện có hiệu quả, giúp người dân bớt nghèo. Đã xuất hiện những mô hình mạnh dạn thay đổi cách làm ăn, đưa các loại cây, con mới về bản để phát triển kinh tế nâng cao thu nhập. Anh nông dân người Dao - Dương Văn Tư là người đi đầu trong phong trào này.
Vài năm trước, Dương Văn Tư (sinh năm 1977) đã được bà con gọi là “vua dê” ở bản Mỏ Ba nơi đỉnh trời này. Mỏ Ba có gần 170 hộ dân thì có đến 100 hộ đồng bào dân tộc Mông. Trên 100 hộ nghèo. Tư là người Dao sinh sống tại bản người Mông nên đã quen với công việc trồng chè trung du và chăn vài đầu lợn. Không cam chịu cảnh thiếu đói triền miên, năm 2017 anh quyết tâm xuống núi để tìm hiểu và học tập mô hình chăn dê thả và bắt đầu nuôi 150 con trên diện tích 30 ha.
Tận dụng địa hình chăn thả tự do trên các thung lũng hoặc đồi núi, ăn các loại lá cây tự nhiên, tốn rất ít chi phí, đàn dê đã nhanh chóng giúp Tư trở nên sung túc với tiền bán dê từ 300- 400 triệu/năm. Có tiền dư dật, anh liền mua sắm các trang thiết bị và phương tiện giao thông để đi lại thuận tiện, cuộc sống cũng đầy đủ hơn.
Xuất phát từ suy nghĩ do tập quán của bà con người Mông chủ yếu vẫn phụ thuộc vào thiên nhiên, tự cung tự cấp về lương thực, thực phẩm nên mới đói nghèo. Muốn thoát khỏi điều đó, chỉ có cách tiên phong thay đổi, mạnh dạn đầu tư sản xuất hàng hoá. Tư duy đó càng được cổ vũ mạnh mẽ bởi những chính sách, chương trình phát triển vùng đồng bào dân tộc miền núi, vùng khó khăn được triển khai tại địa phương.
Những kế hoạch phát triển sản xuất của chàng trai dân tộc Dao luôn được lãnh đạo xóm, lãnh đạo xã quan tâm, động viên cổ vũ và tạo những điều kiện hỗ trợ tốt nhất. Vì thế, “vua dê” Dương Văn Tư đã vận động thêm 7 gia đình trong xóm, mạnh dạn thành lập HTX Nông nghiệp Mỏ Ba do anh làm Giám đốc.
Hoạt động chính của HTX hiện nay là sản xuất tiêu thụ chè, mỗi năm khoảng 15 tấn búp khô, chiếm gần 20% sản lượng chè của xã Tân Long. HTX đã được nhà nước đầu tư máy sao sấy chè. Ngoài chế biến, tiêu thụ chè của các hộ thành viên, HTX còn thu mua và chế biến chè của các hộ trong xóm để giúp bà con tiêu thụ sản phẩm.
Là người chăn nuôi giỏi nhất, cũng là người làm chè giỏi nhất của bản Mông, cuộc sống gia đình khá giả, có điều kiện nuôi con ăn học, song Dương Văn Tư vẫn chưa thể tự hài lòng.
Anh tâm sự, cuộc sống của người dân còn khó khăn lắm, nhiều hộ chẳng có chút tài sản nào đáng giá. Trước đây thì còn đổ cho việc thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Muốn có nước dùng, bà con phải vào các khe suối ở núi đá để bắc ống dẫn nước về, nhưng cũng chỉ mùa mưa nước mới chảy về đến nhà, mùa khô thì người dân phải mang can vào tận các chân núi đá để hứng nước. Nguồn nước khan hiếm, không chủ động được nước tưới nên mỗi năm trồng 2 vụ ngô, nhưng cũng chỉ được 1 vụ vào mùa mưa là ngô cho hạt đều và chắc, còn vụ trồng vào mùa khô thì hầu như bị mất mùa. Vì thế mà cái đói cái nghèo đeo đẳng.
Nhưng nay thì khác rồi, công trình nước sinh hoạt được nhà nước đầu tư đảm bảo cấp nước sạch cho gần 90% số hộ của xóm. Đường giao thông cũng mới được mở từ trung tâm xã, ô tô lên được tận bản để thu mua hàng hoá, bà con chở xuống chợ bán cũng thuận tiện.
Tư sôi nổi nói, Nhà nước đã trang bị cần câu, còn trao cho ta rất nhiều cơ hội, ta không chịu vận động vươn lên thì không thể đổ lỗi cho ai được nữa.
Trồng cây dược liệu
Dương Văn Tư tâm sự, mấy năm gần đây, bà con đã thay đổi tư duy làm ăn, sản xuất đã có kế hoạch, chú trọng trồng mới và chăm sóc rừng trồng như những cây màu khác để phát triển kinh tế từ trồng rừng. Trong xã đã có một số hộ mạnh dạn đầu tư máy móc sơ chế gỗ, tạo thêm công ăn việc làm.
Để khai thác lợi thế về đất rừng và thời tiết khí hậu quanh năm mát mẻ vì ở trên núi cao, anh tính đưa cây dược liệu về trồng sẽ phù hợp và bà con có thể tận dụng trồng dưới tán rừng để có thêm thu nhập.
Từ kinh nghiệm bản thân hơn 10 năm trước đây là một trong những hộ thoát nghèo, vươn lên làm giàu từ cây chè nhờ chịu khó học hỏi và nắm chắc được kỹ thuật chăm bón chè an toàn, chế biến chè đúng cách, nên sản xuất được sản phẩm chè chất lượng cao, sau đó có vốn để nuôi dê, anh Tư mạnh dạn tìm cách đưa cây dược liệu về trồng thử.
Nghĩ là làm, anh tìm đến các mô hình trồng cây dược liệu để tham quan, học hỏi và nhận thấy cây đinh lăng và cây ba kích rất phù hợp. Đây là hai loại cây dễ trồng, không tốn nhiều công sức chăm sóc như những cây trồng khác, cũng không quá kén đất.
Đầu tư gần nửa tỷ đồng trồng 2ha ba kích và đinh lăng xen lẫn với chè đang khai thác, anh Tư nhận định: Tham khảo các mô hình tôi thấy rất hiệu quả, kinh phí đầu tư ban đầu ít, cây khoẻ, phát triển tốt, thị trường tiêu thụ ổn định với giá cao vì hai loại cây này có công dụng tốt đối với tăng cường, bảo vệ sực khoẻ, được chế biến thành các sản phẩm phù hợp với mọi đối tượng và mọi lứa tuổi.
Với 1 vạn cây ba kích và 3 nghìn cây đinh lăng, theo tính toán của anh Tư, cây ba kích đủ 4 năm sẽ cho thu hoạch, mỗi gốc khoảng 2-3 kg củ tươi, giá bán trung bình ở thời điểm hiện tại khoảng 200.000 đ/kg. Còn đinh lăng thì các công ty dược thu mua cả lá, thân và củ càng lâu năm càng đắt giá. So với trồng keo hay chè, hiệu quả kinh tế đều cao hơn hẳn, thêm vào đó là còn góp phần bảo tồn được nguồn dược liệu quý.
Sau khi trồng thử nghiệm, tôi sẽ vận động bà con cùng trồng, để tạo thành vùng nguyên liệu đủ lớn. Hy vọng đây không chỉ là cây thuốc quý mà còn là cây xóa đói giảm nghèo cho bản vùng cao này.